ĐẶC ĐIỂM CÂY LÚA CỎ TRONG RUỘNG LÚA
Lúa cỏ (weedy rice, lúa lộn, lúa lẫn, lúa ma, lúa đốc, lúa rày …)
Tên khoa học: Oryza rufipogon. Họ thực vật : Poaceae.
Đây là tổ tiên của loài lúa ngày nay chúng ta gieo trồng (lúa chúng ta đang gieo trồng có tên khoa học là Oryza sativa - sau đây để dễ hiểu chúng tôi gọi lúa chúng ta trồng là “Lúa trồng”)
O. rufipogon là một loại cỏ sống lâu năm, mọc chủ yếu ở vùng nước nông. Nó là họ hàng gần và có nhiều đặc điểm giống lúa trồng (O. sativa). Sự khác biệt quan trọng so với cây lúa chúng ta trồng là xu hướng hạt sẽ rụng ngay sau khi chín và thời gian ngủ đông thường kéo dài. Giống như cây trồng, hạt lúa cỏ giống không thể nảy mầm trong đất bão hòa.
1. Tác hại:
Lúa cỏ là một loài dịch hại mới được phát hiện gần đây trên ruộng lúa tại Việt Nam
(1994) và mức độ gây hại ngày càng nghiêm trọng ảnh hưởng rất lớn đến năng suất và chất lượng gạo xay chà, nhất là vào vụ lúa xuân hè vì thời gian này thường xảy ra hạn hán, nông dân không chủ động được nước và nhiều hộ nông dân đã phải bỏ trắng không thu hoạch được.
2. Nguồn gốc
Các nhà khoa học cho rằng, khoảng 10,000-13,000 trước Công nguyên từ loài Lúa cỏ (nay ta gọi lúa cỏ, lúa ma) có tên khoa học là Oryza rufipogon Griffiths, phổ biến trên khắp châu Á đã tiến hóa nên lúa trồng chúng ta trồng ngày nay. Mặc dù cây lúa chủ yếu là tự thụ phấn nhưng vẫn tồn tại một số lượng lớn cho phép lai xa (2% hoặc nhiều hơn), có thể sẽ xảy ra lai xa giữa loài này và lúa trồng, do đó loài lúa cỏ này vẫn tiếp tục cho đến ngày hôm nay.
Trong chi Oryza có 25 loài đã được công nhận, trong đó 23 loài hoang dã và 2 loài thuần hóa. Chi Oryza đã được phân loại thành các loài khác nhau dựa trên 9 bộ gen riêng: A, B, C, D, E, F, G, H và J. Lúa trồng - O.sativa thuộc gen A và chứa hai loài ngoại hóa O. sativa và O. glaberrima và sáu loài hoang dã: O. rufipogon, O. nivara, O. barthii, O. longistaminata, O. meridionalis và O. glumaepatula, các loài này tạo ra thành vốn chính của cây lúa. Lúa cỏ (lúa ma) O. rufipogon là loài cây lai lâu năm, phân bố rộng rãi ở Châu Á.
3. Đặc điểm sinh học
Nhiều dòng lúa cỏ được thu thập ở những nơi bị lúa cỏ gây hại trong vùng ĐBSCL đã được trồng khảo nghiệm trong nhà lưới cùng với một số giống lúa trồng tại Viện lúa ĐBSCL.
Kết quả được ghi nhận như sau:
- Thời gian sinh trưởng (TGST): Lúa trồng có TGST ổn định từ 90-95 ngày, với lúa cỏ thì TGST biến động lớn, từ 90-115 ngàỵ.
- Chiều cao cây: Trong ruộng lúa nhiễm lúa cỏ thì chỉ sau 40 ngày là đã xuất hiện lúa nhiều tầng. Đa số các dòng lúa cỏ có chiều cao cây lớn hơn lúa trồng, vì vậy trong ruộng lúa bị nhiễm lúa cỏ khi trổ ra thì tầng trên cùng thường là lúa cỏ. Lúa trồng có chiều cao trung bình 90-95 cm, lúa cỏ từ 120-150 cm, cũng có nhiều dòng lúa cỏ có chiều cao bằng lúa trồng.
Hình: Cây lúa cỏ trong ruộng
- Khả năng đẻ nhánh: Lúa cỏ đẻ nhánh kém hơn lúa trồng. Với mật độ trồng 4 cây/chậu thì lúa trồng cho 10-12 bông/bụi, còn lúa cỏ chỉ có 5-6 bông/bụi. Trên đồng lúa với mật độ dày thì lúa cỏ chỉ có 2 tép/bụi.
- Chiều dài và rộng lá lúa: Lá lúa cỏ rất dài về chiều dài nhưng lại hẹp về bề ngang,
chiều dài lúa cỏ đến 60 cm, lúa trồng chỉ 25-30 cm.
- Màu sắc lá lúa: Khi còn nhỏ màu sắc lá lúa cỏ và lúa trồng tương tự như nhau, nhưng từ sau 40 ngày thì khác. Lúc này là lúa cỏ vàng dần. Quan sát trên ruộng lúa thấy rất rõ hiện tượng nàỵ Những cây lúa có thân mảnh, lá dài và màu vàng hơn lúa trồng đều là lúa cỏ.
- Hình dạng và màu sắc hạt lúa: Hạt lúa trồng thường thon dài, tỷ lệ dài/rộng lớn hơn 3, màu sắc hạt lúa chủ yếu là vàng rơm, gạo lức màu trắng, trọng lượng 1.000 hạt từ 23-25 g. Trong khi đó thì hình dạng hạt lúa cỏ có nhiều dạng như rất dài nhưng bề ngang rất hẹp, tròn hoặc có bề dài và rộng lớn hơn rất nhiều, màu sắc hạt lúa cũng có nhiều kiểu như đen, vàng sẫm, nâu đen hoặc tím, đôi khi trên cùng một bông lúa cũng có nhiều hạt với những màu sắc khác nhau, gạo lức màu đỏ, trọng lượng 1.000 hạt biến động từ 15-28g.
- Đuôi hạt lúa: Lúa trồng hạt không có đuôi, lúa cỏ thường có đuôi và chiều dài đuôi biến động từ 1-7 cm.
Hình: Hạt lúa cỏ
- Đặc điểm rụng hạt: Đây chính là nguyên nhân gây thất thoát năng suất cho ruộng lúa vì lúa cỏ trên đồng cũng hấp thu phân bón, ánh sáng, nước, cũng được chăm sóc như lúa trồng nhưng lại không cho sản phẩm. Lúa cỏ trỗ bông sớm hơn lúa thường 5-7 ngày, thời gian trỗ kéo dài, chín không đều, khi chín rất dễ rụng. Kết quả khảo sát cho thấy chỉ sau khi trổ 15 ngày, khi hạt lúa vừa vào chắc là bắt đầu rụng hạt, mức độ rụng hạt càng nhiều khi đến gần giai đoạn chín. Tỷ lệ rụng hạt trung bình là 50%, nhiều dòng dễ rụng hạt thì tỷ lệ này đến 90%. Những hạt lúa chắc ở đầu bông đều rụng hết, chỉ để lại một số ít hạt lửng lép ở cuối bông.
- Khả năng tồn tại trong môi trường: Lúa cỏ có khả năng tồn tại rất tốt trong môi trường như hạt cỏ. Sau mùa lũ ngập 2-3 tháng nhưng khi nước rút, điều kiện thuận lợi thì lúa cỏ lại nảy mầm và phát triển bình thường. Trong điều kiện chôn sâu dưới đất có ngập nước thì sau 1 tháng lúa cỏ vẫn có tỷ lệ nảy mầm trên 90%, còn lúa trồng thì đã bị hư hết. Nghiên cứu của Chen (2001) báo cáo rằng số lượng hạt lúa cỏ trong mẫu đất 1m² x sâu 15 cm dao động từ 10 đến 30.000. Sau khi thu hoạch và trước khi bừa, 84,4% hạt vẫn còn trong lớp đất bề mặt 0-3 cm. Việc cày bữa đã giúp di chuyển hạt xuống lớp đất 3-15 cm, dẫn đến chúng nhiễm trên ruộng nghiêm trọng và khó kiểm soát.
- Tính cạnh tranh và gây hại: Lúa cỏ mang đặc tính hoang dại nên chúng có khả năng sinh trưởng rất mạnh, lấn át lúa trồng. Trên ruộng lúa có nhiều lúa cỏ thì sau khi trổ là lúa cỏ đổ ngã và thường kéo theo sự đổ ngã của lúa trồng. Với mức độ 100 hạt/m2 (số hạt tương đương của một bông lúa) thì lúa cỏ đã gây thiệt hại cho lúa trồng 30%, còn ở mức 1.000 hạt/m2 thì lúa cỏ làm giảm năng suất đến 90% so với đối chứng.