Trang chủ / Blog / RƠM RẠ CÓ THỂ GÂY NGỘ ĐỘC HỮU CƠ CHO CÂY LÚA?: Nguyên nhân, nhận dạng và hướng khắc phục

RƠM RẠ CÓ THỂ GÂY NGỘ ĐỘC HỮU CƠ CHO CÂY LÚA?: Nguyên nhân, nhận dạng và hướng khắc phục


1. Thực trạng rơm rạ ở Đồng bằng sông Cửu Long?


Sợi rơm vàng' của nông dân Đồng Tháp

 

Rơm rạ là nguồn cung cấp chất hữu cơ quan trọng cho đất lúa. Hàng năm, mỗi hecta đất lúa cao sản ở Đồng Bằng Sông Cửu Long đã cho ra một lượng rơm rạ rất lớn, trung bình mỗi tấn lúa có 1 tấn rơm rạ. Mỗi năm, ĐBSCL sản xuất khoảng 22 triệu tấn rơm rạ, thông tin này được đưa ra tại Hội thảo “Giải pháp quản lý rơm rạ trên đồng ruộng kết hợp cơ giới hoá và cải thiện sức khỏe đất, ra mắt nhãn hiệu Gạo Việt xanh phát thải thấp” tổ chức vào ngày 24.4.2025.


Một nghiên cứu về thực trạng sử dụng rơm rạ đã được tiến hành bằng cách phỏng vấn 250 nông hộ ở các tỉnh, thành phố: Sóc Trăng, Bến Tre, Cần Thơ, Đồng Tháp và Kiên Giang. Kết quả cho thấy, nông dân thường sử dụng các phương thức xử lý rơm rạ như: Đốt, vùi, thu gom rơm rạ, nuôi tôm. Trong đó, đốt rơm rạ là phương thức phổ biến ở vùng ĐBSCL. Người dân xử lý rơm rạ thay đổi theo mùa vụ. Ở vụ Đông- Xuân, đốt rơm rạ là phương thức xử lý rơm rạ phổ biến nhất, tiếp theo là vụ hè thu và thu đông. Ngược lại, tỷ lệ rơm rạ vùi vào đất tương đối cao trong các vụ thu đông và hè thu. Tỷ lệ đốt rơm rạ có xu hướng giảm trong khi tỷ lệ thu gom rơm ra khỏi đồng ruộng phục vụ cho các mục đích như: Bán, trồng nấm, phủ cho cây trồng, thức ăn chăn nuôi, sản xuất phân bón hữu cơ và giá thể có xu hướng tăng. Khu vực đầu nguồn sông Cửu Long, người dân có xu hướng xử lý rơm rạ bằng phương thức đốt, trong khi đó cuối nguồn sông Cửu Long có xu hướng sử dụng rơm rạ của vụ lúa trong cơ cấu lúa - tôm cho vụ tôm kế tiếp. Vì vậy, nếu rơm rạ được sử dụng hợp lý, chúng có thể cải thiện đáng kể sức khỏe đất.


Nếu biết cách sử dụng tốt, phụ phẩm này sẽ đem lại nhiều lợi ích cho nhà nông và cho đất, giảm ô nhiễm môi trường không khí và tăng năng suất cây trồng bền vững. Ngược lại, nếu xử lý rơm rạ không đúng có thể gây ngộc độc hữu cơ cho cây lúa. Thí nghiệm đồng ruộng ở ĐBSCL cho thấy, làm đất vùi 6 tấn rơm rạ/ha trong điều kiện ngập nước rồi gieo lúa ngay đã làm giảm năng suất lúa khoảng 15% do lúa bị ngộ độc hữu cơ. Thực trạng sản xuất hiện nay cho thấy ở nhiều nơi ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) bà con nông dân đang phải đối mặt với tình trạng lúa bị vàng lá, ít nhảy chồi, thấp cây, kém phát triển mà nguyên nhân là do mưa không xử lý rơm rạ trước khi làm đất hoặc tranh thủ thời vụ để gieo sạ ngay cho kịp 3 vụ/ năm.


2. Tại sao rơm rạ gây ngộ độc hữu cơ cho cây lúa?

Rơm rạ là chất hữu cơ, nếu cày vùi vào đất sẽ được tập đoàn vi sinh vật trong đất như vi khuẩn, nấm, xạ khuẩn phân hủy. Tùy theo độ thông thoáng của đất mà sản phẩm cuối cùng trong tiến trình phân hủy nầy cũng khác nhau:


- Ở đất không ngập nước, oxy trong không khí có thể đi vào trong đất đủ cho tập đoàn vi sinh vật háo khí (là vi sinh vật sống phải có oxy) phát triển để phân hủy rơm rạ. Sản phẩm cuối cùng của tiến trình phân hủy nầy là chất CO2, NO3- và SO42-, nước và những chất mùn. CO2 là chất khí sẽ thoát ra khỏi đất và không làm hại rễ cây, còn NO3- và SO42- là dưỡng chất được cây hấp thụ. Vì vậy, rơm rạ phân hủy ở đất không ngập nước sẽ không tạo ra độc chất gây hại rễ của  cây trồng.


- Còn ở đất ngập nước, oxy trong không khí không thể đi vào trong đất, nên tập đoàn vi sinh vật kỵ khí (là vi sinh vật sống không cần oxy) phát triển để phân hủy rơm rạ. Sản phẩm cuối cùng trong tiến trình phân hủy nầy là CH4, CO2, H2, H2S, NH3, acid hữu cơ, R-NH2, RSH và những chất mùn. H2S và acid hữu cơ là những chất gây độc cho bộ rễ lúa. Đặc biệt ở đất phèn, chôn vùi rơm rạ vào đất trong tình trạng ngập nước sẽ làm gia tăng ngộ độc sắt Fe2+ ở cây lúa. Như vậy, chôn vùi rơm rạ vào đất ngập nước sẽ tạo ra nhiều loại độc chất gây hại cho rễ lúa, nhất là trong khoảng 3- 4 tuần đầu sau khi làm đất. 


3. Triệu chứng cây lúa bị ngộ độc hữu cơ và sắt

Để nhận diện triệu chứng ngộ độc của lúa cần phải quan sát kỹ qua màu sắc của lá, sự sinh trưởng của cây, hình dạng và màu sắc của rễ và tính chất của đất.


- Khi cây lúa bị ngộ độc hữu cơ và H2S: Khi bệnh mới phát sinh thì ngọn lá lúa biến vàng đỏ, khô từ chóp lá lan dần xuống dưới, lá lúa có khuynh hướng dựng đứng. Lá già bị vàng, lá non bị vàng phần thịt lá. Cây lùn, nhảy chồi kém. Bị nặng thì nhiều lá phía trên bị vàng đỏ đến 1/3 lá, cây lúa ngừng sinh trưởng, Rễ màu nâu đen đến đen, có mùi hôi, chết nhiều, mất khả năng oxy hóa nên dễ bị ngộ độc sắt Fe2+ trên ruộng đất phèn. Cây lúa hấp thụ dinh dưỡng kém, mất cân đối nên dễ nhiễm bệnh như bệnh đốm nâu. Năng suất lúa giảm. Ngộ độc hữu cơ thường thấy ở đất trủng thấp, ngập nước, nhiều sét, ít thấm rút và có cày vùi nhiều rơm rạ mà gieo sạ lại sớm.


- Khi cây lúa bị ngộ độc sắt (còn gọi là phèn nóng): Ttriệu chứng trên lá đôi khi tương tự như ngộ độc hữu cơ, nhưng ngộ độc sắt thường thì lá có màu nâu tím hoặc vàng cam, trên lá già xuất hiện những đốm nhỏ màu nâu, lan dần từ chóp lá trở xuống, dần dần cả lá trở màu nâu, bầm tím, vàng hoặc cam. Trường hợp bị nhiễm độc sắt nặng, tất cả các lá trở nên nâu và những lá già bị rụi sớm. Rễ ít, ngắn, thô có màu nâu hoặc đỏ. Nếu nhỗ bụi lúa lên kiểm tra sẽ thấy rễ thưa ít, ngắn, thô và có màu nâu đậm và quăn queo. Cây sinh trưởng chậm, lùn lại, nhảy chồi kém. Do sự kém phát triển của bộ rễ nên khả năng hấp thu nước và dinh dưỡng cung cấp cho cây bị hạn chế khiến cây lúa bị suy dinh dưỡng, nếu tình trạng này kéo dài cây lúa sẽ bị suy kiệt dần, chết rải rác hoặc từng chòm. Lúa sau này bị lép nhiều, năng suất giảm. Ngộ độc sắt thường thấy ở đất phèn, trong khoảng 2- 3 tuần đầu sau khi làm đất, nhất là khi có cày vùi nhiều rơm rạ. 



Ruộng lúa bị ngộ độc hữu cơ ở giai đoạn mạ (Hình trên) và giai đoạn đẻ nhánh (Hình dưới)

 

4. Biện pháp phòng ngừa và khắc phục

Không nên để cho cây lúa bị ngộ độc hữu cơ và sắt rồi mới trị, mà cần có biện pháp phòng ngừa. Biện pháp phòng ngừa ngộ độc hữu cơ được tiến hành như sau:


- Đối với những diện tích chuẩn bị xuống giống, sau khi đã thu hoạch lúa cần vệ sinh đồng ruộng thật kỹ lúa rài, lúa chét và cỏ dại xung quanh bờ ruộng, xới trục kỹ và phải đảm bảo thời gian cách ly ít nhất 14 ngày. 


- Xử lý vôi, bơm và tháo nước rửa đất cho những diện tích có nguy cơ ngộ độc hữu cơ cao. Cường lực cho cây lúa bằng cách bón vôi là để cung cấp chất can-xi cho lúa, rễ lúa có đủ can-xi sẽ ít bị ngộ độc hữu cơ, vôi nên bón lúc làm đất với liều lượng khoảng 300 kg/ha. 


- Đặc biệt những vùng xuống giống lúa mùa mưa không đảm bảo thời gian cách ly cần phải phun nấm Trichoderma, bón lót phân Lân (P) ngay khi làm đất lần cuối nhằm hạn chế ngộ độc hữu cơ. Bón phân P và Kali (K) liều cao hơn so với thông thường cũng giúp cho rễ lúa phát triển mạnh, chịu đựng tốt ngộ độc hữu cơ.


- Chất Silic (Si) cũng giúp cây lúa nở rộng đường vận chuyển oxy từ lá xuống rễ, giúp rễ nhận được nhiều oxy hơn để oxy hoá các độc chất hữu cơ trong đất, bón 100 kg/ha super silic vào lúc làm đất. 


- Trong trường hợp không cày ải được vì phải gieo sạ lại ngay sau khi thu hoạch, phải cắt gốc rạ (dùng máy cắt gốc rạ) và di chuyển hết rơm và gốc rạ ra khỏi ruộng trước khi làm đất. Rơm rạ này có thể dùng để trồng nấm rơm hay ủ mục (chủng thêm nấm Trichoderma sp. cho mau mục) làm phân hữu cơ bón lại cho đất.


- Nếu không cắt được gốc rạ để di chuyển ra khỏi ruộng, phải áp dụng biện pháp rút nước ra khỏi ruộng ở thời điểm 15 và 30 ngày sau khi sạ. Nước được rút khô kiệt ít nhất 5 ngày (mực thủy cấp cách mặt đất 10- 15 cm), đến khi mặt ruộng nứt chân chim 2- 3 mm thì vô nước lại, bón phân. Ở ruộng nước có khả năng rút nước xuống sâu, thì hiện tượng ngộ độc hữu cơ xảy ra ít hơn. Còn ở ruộng cao, sau nhiều năm xới đi xới lại, hình thành tầng đế cày phía dưới không cho nước rút xuống. Đối với những ruộng này thì cách khắc phục là bơm nước vào ruộng cho rút nước là không hiệu quả. Khi đó nên tiến hành rút nước trên mặt bằng cách đánh rãnh, rút nước càng nhanh cành tốt. Rút nước có tác dụng loại bỏ chất độc, đất khô ráo, có khe nứt, cho không khí chui xuống dưới, chất độc bay hơi. Một mặt xả bỏ độc tố, một mặt bay hơi.


- Trong trường hợp không cắt gốc rạ mà trời nắng tốt và cần phải gieo sạ lại ngay sau khi thu hoạch có thể áp dụng đốt rơm rạ. Nhưng cách này có thể gây ô nhiễm môi trường không khí và không tận dụng tốt nguồn hữu cơ từ rơm rạ sẵn có trên ruộng. 


-  Chọn giống chống chịu tốt với điều kiện đất phèn và nhiều hữu cơ. Ngoài ra, xử lý hột giống với những “chất kích hoạt rễ” lúc ủ giống cũng giúp cho rễ lúa chống chịu tốt hơn trong môi trường đất có độc chất hữu cơ.


Khi ruộng lúa bị ngộ độc hữu cơ, cần tiến hành như sau:

- Đối với ruộng lúa bị ngộ độc hữu cơ, nên ngừng việc bón phân đạm hoặc NPK, cần đưa nước vào ruộng với mực nước 5- 7cm, kết hợp với làm cỏ sục bùn giúp rễ thoáng khí.


- Sau 5- 7 giờ tháo nước trong ruộng, để khô 2- 3 ngày, đưa nước trở lại nhằm rửa bớt độc tố trong quá trình phân hủy rơm rạ tạo ra. Sau đó bón Vôi hoặc Lân.


- Cần sử dụng các chất có chức năng giúp lúa hồi phục nhanh, kích thích ra rễ và tăng khả năng hút dinh dưỡng: Amino, vi lượng (Magie, Kẽm, Sắt…), Brassinilide, …


- Sau khi kiểm tra thấy cây lúa ra rễ mới (rễ trắng) và lá mới, mới tiến hành bón thúc phân NPK và chăm sóc bình thường lại. 

 

 

RƠM RẠ CÓ THỂ GÂY NGỘ ĐỘC HỮU CƠ CHO CÂY LÚA?: Nguyên nhân, nhận dạng và hướng khắc phục