RUỒI ĐỤC LÁ TRÊN LÚA
Tên khoa học: Hydrellia griseola (Fallen)
Họ Ephydridae, Bộ Hai Cánh (Diptera)
1. Phân bố
Ruồi được ghi nhận xuất hiện đầu tiên ở Philippines, hiện nay ruồi đã hiện diện trên hầu hết các vùng trồng lúa ở Đông nam Á. Trên thế giới ruồi là loài côn trùng gây hại quan trọng cho cây lúa.
Trước đây, ruồi tuy xuất hiện nhiều ở khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long nhưng mức độ gây hại không đáng kể, thậm chí nhiều bà con nông dân chưa biết đến sự tồn tại của loài chúng trên ruộng. Trong những năm gần đây, dưới sự ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, một số địa phương sự gây hại của ấu trùng ruồi đã bắt đầu được quan tâm.
2. Ký chủ
Ngoài cây lúa, ruồi còn có thể sống trên lúa hoang, các loại cỏ như cỏ
Brachiaria, Leptochloa, Leersia, Panicum, Cynodon.
3. Đặc điểm hình thái và sinh học
- Ruồi rất giống ruồi nhà nhưng kích thước cơ thể nhỏ hơn, thân màu xám, dài từ 2-5 mm, cánh trong suốt, sải cánh từ 2,5- 3,5 mm. Thành trùng cái đẻ trứng vào 3- 4 ngày sau khi vũ hóa, đẻ khoảng 100 trứng và có tuổi thọ trung bình từ 3-7 ngày.
- Trứng hình bầu dục, màu trắng, gắn vào lá nhờ chất keo tiết từ bụng ruồi cái và nở trong vòng từ 2 - 6 ngày.
- Dòi có cơ thể hình trụ, dài từ 6- 7 mm, mới nở màu trắng sữa, dần dần chuyển sang màu vàng nhạt; dòi có 3 tuổi, phát triển trong thời gian từ 10- 14 ngày
- Nhộng dài từ 3-4 mm, màu nâu nhạt, hình trụ, có 2 gai nhọn ở cuối bụng. Nhộng phát triển từ 7-10 ngày.
Trong điều kiện lý tưởng, vòng đời có thể hoàn thành chỉ trong 15 ngày. Trong thời tiết mát mẻ, vòng đời có thể kéo dài hơn một tháng.
Hình: Ruồi đục lá lúa Hydellia griseola (Fallen) và triệu chứng gây hại tren ruộng lúa
4. Tập quán sinh sống và cách gây hại
- Thành trùng hoạt động vào ban ngày và thường đậu trên những lá lúa gần mặt
nước, không bị thu hút bởi ánh sáng đèn, nhưng bị thu hút nhiều bởi ruộng lúa mới
cấy.
- Thành trùng thích đẻ trứng trên ruộng lúa còn nhỏ, khoảng 30 ngày sau khi cấy.
- Trứng được đẻ từng cái trên phiến những lá gần mặt nước, nhiều nhất trên lúa cấy.
- Ấu trùng khi nở ra sẽ nhờ sương di chuyển dần xuống các chồi non, tấn công
trên lá non còn cuốn lại của cây lúa bằng cách dùng móc nhọn ở miệng chích hút lá
non nhất. Ấu trùng hoặc nhộng có thể được tìm thấy bằng cách tách các lớp lá.
- Do đo, khi lá mở ra sẽ có những vết màu vàng lợt hoặc bị lủng thành một
hàng ngang hoặc làm đứt ngang phiến lá. Lá non bị hư và khô, cây lúa bị lùn và phát
triển kém, cho ít chồi.
- Ruồi thường tấn công lúa non 2 tháng tuổi trở lại, nhất là gây hại nặng cho lúa
vừa mới cấy. Lúa cấy bị hại nhiều hơn lúa sạ do thành trùng phát hiện cây lúa nhờ
bóng cây lúa phản chiếu từ mặt nước xuống ruộng.
- Ruộng lúa do ruồi tấn công có thể hồi phục nếu sau đó không có loài sâu nào tấn công liên tiếp theo, nhưng có thể chín muộn khoảng từ 7 - 10 ngày.
5. Biện pháp phòng trị
a/ Biện pháp canh tác:
- Làm đất trước khi trồng lúa, cày bừa để vùi cỏ dại, diệt ấu trùng và nhộng.
- Vệ sinh đồng, dọn cỏ thường xuyên.
- Nếu có điều kiện nên rút nước định kỳ khỏi ruộng trong vòng 30 ngày sau khi
cấy, mỗi lần rút nước khoảng 3 - 4 ngày. Tốt nhất là giai đoạn đầu (30 ngày sau sạ) chỉ nên giữ nước xâm xấp mặt ruộng để hạn chế ruồi đẻ trứng.
b/ Biện pháp hóa học:
- Việc sử dụng thuốc BVTV chỉ cần thiết khi mật độ ruồi hiện diện trên ruộng quá cao hoặc ruồi xuất hiện muộn.
- Sử dụng thuốc hóa học có teherbằng 3 cách sau:
* Nhúng rễ mạ vào dung dịch thuốc lưu dẫn một đêm trước khi cấy
* Sử dụng thuốc hột có tác dụng lưu dẫn rải vào ruộng.
* Áp dụng thuốc nước lúc 1 - 2 tuần sau khi cấy để diệt thành trùng.
Lưu ý: Giai đoạn lúa còn nhỏ nên hạn chế sử dụng thuốc BVTV. Cần tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc sử dụng thuốc BVTV để tránh tác động đến môi trường, sinh thái và sức khỏe con người. Việc sử dụng thuốc BVTV thường xuyên dễ dẫn đến tình trạng chai đất và kháng thuốc ở côn trùng – sâu hại.
c/ Biện pháp sinh học:
Sử dụng các chế phẩm sinh học chứa các loại vi sinh vật ký sinh ruồi đục lá như là: Beauveria, Metarhizium, Bacillus,...