* Cơ chế hấp thụ chất dinh dưỡng qua đường lá
Bộ lá và các bộ phận khác trên mặt đất, kể cả vỏ cây cũng có thể hấp thu trực tiếp các dưỡng chất. Trên bề mặt lá có các lỗ khí khổng, đây là các lỗ cực nhỏ. Bên cạnh việc giúp cây thoát hơi nước, cân bằng nhiệt độ trong cây, mở để CO2 đi vào bên trong tham gia cho quá trình quang hợp thì các lỗ khí khổng này còn là nơi hấp thụ các chất dinh dưỡng bằng con đường phun qua lá. Các chất khí như SO2, NO2, NH3 cũng có thể đi vào lá qua khí khổng, cũng được cây đồng hóa trở thành chất hữu cơ. Hàng ngày cây có thể hấp thụ qua lá 100 – 450g/ha NH3.
Trên cây một lá mầm (đơn tử diệp) khí khổng thường phân bố cả 2 mặt lá, thậm chí mặt trên lá nhiều hơn mặt dưới lá như: Lúa , lúa mì…, trên cây ăn trái (cây thân gỗ) khí khổng thường tập trung nhiều ở mặt dưới lá.
Một số ion còn thẩm thấu trực tiếp qua lớp biểu bì lá, con đường này phụ thuộc vào nhiều cấu tạo của lá cây, tầng cutin…Quá trình hút ion vào ban đêm thường hoạt động và diễn ra mạnh hơn do khí khổng mở.
Theo số liệu đã được công bố, hiệu suất sử dụng chất dinh dưỡng qua lá đạt tới 95%. Trong khi đó, bón qua đất, cây chỉ sử dụng được 45-50% chất dinh dưỡng. Sở dĩ như vậy là vì tổng diện tích bề mặt các lá trên một cây rộng gấp 15-20 lần diện tích đất được che phủ bởi cành và lá, nghĩa là diện tích hấp thụ chất dinh dưỡng của lá rộng hơn rất nhiều so với diện tích đất trồng của một cây. Tuy nhiên có một vấn đề đặt ra là không thể thay thế dinh dưỡng hấp thu qua rễ vì hàm lượng không cao.
* Sự hấp thu dinh dưỡng qua lá bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài lẫn bên trong của cây như:
1. Ánh sáng, nhiệt độ và mưa gió bên ngoài môi trường:
Ngược lại với tế bào rễ, tế bào lá bị kích thích trực tiếp bởi ánh sáng trong việc hấp thu dưỡng chất qua lá trong điều kiện thí nghiệm. Tuy nhiên, ở điều kiện ngoài đồng, sự hấp thu dinh dưỡng khoáng qua lá thường không bị kích thích bởi ánh sáng, và thậm chí bị giảm do ảnh hưởng gián tiếp của ánh sáng (Tia UV). Vào ban ngày, khi nhiệt độ không khí gia tăng làm giảm ẩm độ, dẫn đến sự bốc hơi làm khô nhanh chóng dung dịch nầy trên bề mặt lá và nếu sử dụng dung dịch dinh dưỡng với nồng độ cao (đậm đặc) để phun thì sẽ dẽ gây đốm chết, cháy trên lá, trên hoa.
Mưa gió cũng làm hạn chế sự hấp thu dinh dưỡng trên lá vì dễ làm rửa trôi dung dịch dinh dưỡng mới phun. Do đó, không nên sử dụng phân bón lá khi cây đang nở hoa vào lúc thời tiết quá nóng hay khi có mưa, gió lớn.
Phun phân bón lá vào lúc khí khổng đang mở: Điều kiện ngoại cảnh ảnh hưởng đến sự đóng mở khí khổng. Do đó, nên phun khi nhiệt độ từ 10-30 độ C, trời không nắng, không mưa, không có gió khô; phân bón lá chỉ phát huy tác dụng khi cung cấp đủ nước qua rễ.
2. Hóa trị của nguyên tố khoáng:
Lá sẽ ưu tiên hấp thu dễ dàng các phân tử nhỏ, không tích điện so với các ion mang điện tích. Ví dụ: Sự hấp thu Đạm qua lá dạng urea thường cao hơn dạng ammonium (NH4+) hoặc đạm nitrate (NO3–), là do Urea không mang điện tích nên dễ dàng thẩm thấu vào các khoảng trống tự do và đi qua màng.
3. Nồng độ dưỡng chất phun:
Tốc độ hấp thu các nguyên tố khoáng gia tăng khi nồng độ dung dịch phun bên ngoài tăng. Ngay cả đối với các nguyên tố đa lượng như N, P và K thì nếu chúng có nồng độ thấp trong dung dịch phun thì sự hấp thu qua bề mặt lá cũng thấp.
Do vậy mà nồng độ chất phun phải cao hơn nồng độ có sẵn trong lá. Tuy nhiên, nếu nồng độ phun quá cao sẽ gây cháy lá, hoặc cây bị bội thực (gây độc) và chết, nếu bón nồng độ thấp thì hiệu lực không rõ. Trong trường hợp này có thể khắc phục bằng cách pha nồng độ dung dịch lên cao từ từ, phun thử nghiệm, đến khi cháy lá thì quay lại nồng độ trước đó, chọn nồng độ đó để phun đại trà cho cây. Đơn giản hơn là khi sử dụng phân bón lá phải ở những nồng độ thích hợp (theo hướng dẫn in trên bao bì).
4. Tính tan của hợp chất:
Sự hấp thu các nguyên tố khoáng có liên quan tới tính hoà tan và tính hút ẩm của những dạng muối này chứa nguyên tố đó. Hợp chất nào có kích thước hạt càng nhỏVí dụ: Tốc độ hấp thu của Mg của lá từ những dạng muối Mg khác nhau MgCl2 > Mg(NO3)2> MgSO4.
5. Tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe của cây:
Cây trồng khỏe, phát triển mạnh thì nhu cầu về dinh dưỡng càng cao. Quá trình quang hợp, hô hấp, trao đổi chất càng mạnh thì hấp thu dinh dưỡng càng mạnh. Nếu cây yếu ớt, phát triển chậm, bị sâu bệnh thì quá trình hấp thu chất dinh dưỡng cũng kém. Cây ở thời kỳ sinh trưởng mạnh, ra hoa, kết trái nhu cầu về dinh dưỡng. Khả năng hấp thu mạnh hơn ở các thời kỳ cuối, khi cây đã già yếu.
Tốc độ hấp thu dinh dưỡng qua bề mặt của lá còn tùy thuộc vào tình trạng dinh dưỡng cây, khi cây bị thiếu dinh dưỡng nào thì sự hấp thu qua lá chất dinh dưỡng đó sẽ được gia tăng (nếu trong dung dịch phun có chất đó). Ví dụ: Mức độ hấp thu P qua lá ở những cây bị thiếu P cao gấp hai lần so với cây được cung cấp P đầy đủ qua rễ (cây đối chứng).
6. Nồng độ dưỡng chất trong khoảng gian bào của lá:
Nồng độ cao các dưỡng chất khoáng trong khoảng trống gian bào của mô lá sẽ làm hạn chế nghiêm trọng sự hấp thu dưỡng chất từ bề mặt lá vào khoảng trống gian bào.
7. Cấu trúc bề mặt lá và tuổi lá
Bề mặt lá cây sẽ khác nhau ở từng loại cây trồng như có lông hay không lông, có lớp sáp hay không. Những loại lá cây có lông, lớp sáp dày sẽ khó hấp thu dinh dưỡng hơn các loại lá cây khác.
Tốc độ hấp thu các chất dinh dưỡng khoáng qua lá thấp hơn nhiều so với tốc độ hấp thu qua rễ, bởi vì ở lá có lớp cutin giới hạn sự khuyếch tán dưỡng chất tới màng tế bào và tới các vị trí hấp thu khác. Bề dầy của lớp cutin thay đổi theo loại cây và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố môi trường.
Mức độ hấp thu dinh dưỡng khoáng qua lá thường bị giảm theo tuổi lá (lá non hấp thu tốt hơn lá già). Có nhiều yếu tố gây ra sự giảm này ở lá già: hoạt động biến dưỡng ở lá già giảm hơn lá non, nồng độ ion trong khoảng gian bào cao ở lá già cao hơn lá non, lớp cutin trên bề mặt lá già dày hơn lá non.
Để “thắng” được hàng rào cản của lớp cutin, cần:
- Phun lúc lá cây còn non khi sử dụng dụng những chất dinh dưỡng lưu động (mobile nutrients), lá còn đang phát triển thì sự chuyển dịch xuống rễ chậm hơn, điều này kích thích sự hấp thu dinh dưỡng từ rễ do bộ lá phát triển và quang hợp tốt hơn. Với các chất dinh dưỡng bất động (immobile nutrients) thì sử dụng trên cả lá già và lá non vì cả hai đều chuyển dịch chậm xuống rễ, như vậy không gây nên sự thay đổi nào hoặc có thể làm gia tăng lượng dinh dưỡng hấp thu từ rễ.
- Thêm chất trải có nguồn gốc silicon là cách làm tăng hiệu quả khi phun, đặc biệt là lá có lớp cutin dày. Việc thêm chất trải cũng làm giảm thiệt hại lá vì vào ban ngày, khi nhiệt độ không khí gia tăng làm giảm ẩm độ, dẫn đến sự bốc hơi nhanh chóng dung dịch phun lá và làm khô nhanh dung dịch này trên bề mặt lá.
6. Giống cây trồng:
Mỗi giống cây trồng khác nhau sẽ có cách thức và mức độ hấp thu dinh dưỡng riêng biệt. Do đó tùy theo từng loại cây trồng để bà con nông dân chọn lựa loại phân bón và cách phun phân bón lá phù hợp để nâng cao hiệu quả và năng suất.
Đối với những loại cây hai lá mầm như cà chua, cam, quýt… nên tập trung bón phân vào mặt dưới lá. Riêng đối với cây lúa, bắp thì phun đều cả hai mặt lá với liều lượng phù hợp.
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.